Điều 19 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 28 tháng 11 năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Do đó, mọi hành vi tước đoạt trái phép tính mạng của người khác sẽ được nghiêm trị theo quy định của pháp luật hình sự.
Bạn đang xem: Công cụ giết người là gì
1. Căn cứ pháp lý
“Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Dấu hiệu pháp lý Tội giết người
2.1. Khách thể của tội phạm
Giết người là hành vi trái pháp luật của một người cố ý tước bỏ quyền sống của người khác.
Quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Cuộc sống của mỗi con người bắt đầu từ khi họ được sinh ra đến khi họ chết.
Người bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người.
Giết một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai không phải là giết nhiều người.
Trường hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém... với ý thức giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối tượng.
Tội giết người trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người. Đối tượng tác động của tội giết người là thân thể con người đang sống.
Như vậy, khách thể của tội giết người là quyền được sống, quyền được Nhà nước bảo hộ về tính mạng của con người.
2.2.Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền sống của người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi phạm tội có thể hành động hoặc không hành động. Các phương tiện như súng, dao, gậy gộc, tay chân, thuốc độc... Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác thường được thực hiện bằng các phương thức như bắn, chém, đâm, treo cổ, bóp cổ, đầu độc, đấm đá v.v... Trường hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ để người bệnh chết mặc dù người Y tá này phải có nghĩa vụ cho người bệnh uống thuốc.
Tuy nhiên, hành vi nêu trên phải là trái pháp luật mới cấu thành tội giết người. Vì vậy, không coi là phạm tội giết người trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc thi hành bản án tử hình. Ngoài hai trường hợp này thì tất cả những hành vi tước bỏ quyền sống của người khác, kể cả được sự đồng ý của nạn nhân cũng đều bị coi là trái pháp luật.
Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hìnhsự quy định những trường hợp thể hiện mức độ và tính nguy hiểm cao của tội phạm:
a) Giết 02 người trở lên.
Giết 02 người trở lên là trường hợp người phạm tộicó ý định giết từ hai người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả nhiều người chết xảy ra.
Nếu có hai người chết, nhưng lại có một người do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội: "Giết người" và "vô ý làm chết người". Ví dụ: A và B cùng uống rượu ở nhà A, việc A và B say rượu dẫn đến hai người cãi lộn, A bực tức rút súng bắn B. Thấy A rút súng bắn mình, B hoảng sợ bỏ chạy ra cửa; vừa lúc đó, con của A thấy hai người to tiếng chạy vào, A nổ súng, đạn xuyên qua ngực B trúng vào đầu con của A; cả B và con của A đều bị chết.
b) Giết người dưới 16 tuổi.
Giết người dưới 16 tuổi là trường hợp trường hợp mà nạn nhân bị giết chưa đủ 16 tuổi.
Giết người dưới 16 tuổi được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.
Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Trường hợp không có giấy tờ chứng minh tuổi của bị hại, việc xác định tuổi của bị hại được tiến hành theo quy định tại điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự số: 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 như sau:
* Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
- Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
- Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
* Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai.
Là trường hợp người phạm tộibiết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai(không kể tháng thứ mấy).
Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội giết phụ nữ mà biết là có thai. Ví dụ: A là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị H. A chê phở không ngon và có lời qua tiếng lại với chị H về giá tiền của bát phở. A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng. Trường hợp này A không hề biết chị H đang mang thai nên không thể coi là giết phụ nữ mà biết là có thai.
Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tộitưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tộilà có căn cứ, thì người phạm tộivẫn bị xét xử về tội giết người trong trường hợp "giết phụ nữ mà biết là có thai". Ví dụ: K và chị M đi trên chuyến xe và có xảy ra tranh giành ghế. K không giành được ghế và cảm thấy vô cùng bực tức. Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: "Tao đánh cho mày trụy thai để mày hết thói chua ngoa". Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: "Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội". Nhưng K vẫn không buông tha, tiếp tục đánh chị M đến chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai. Trường hợp này nạn nhân dù không có thai thật nhưng biểu hiện bên ngoài khiến cho tất cả mọi người đều nghĩ rằng nạn nhân có thai, bản thân K cho rằng chị M có thai và vẫn ra tay đánh chị M đến chết. Do đó hành vi này vẫn bị coi là giết phụ nữ mà biết là có thai.
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Giết người đang thi hành công vụ là trường hợp người bị giết đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định: cán bộ chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ; thẩm phán đang xét xử tại phiên tòa; cán bộ thuế đang thu thuế; v.v... Cũng được coi là đang thi hành công vụ đối với những người tuy không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hòa giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v...
Nạn nhân bị chết phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ, thì người phạm tội mới bị coi là phạm tội trong trường hợp "giết người đang thì hành công vụ". Nếu nạn nhân lại bị giết vào lúc khác thì không thuộc trường hợp giết người đang thi hành công vụ.
Khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, nạn nhân bị giết trong trường hợp vì lý do công vụ của nạn nhân không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội thù oán nên đã giết họ. Ví dụ, chiến sĩ cảnh sát giao thông A xử lý hành chính đối với anh B vì không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Anh B có xin xỏ để không phạt chịu phạt nhưng cảnh sát giao thông A không đồng ý. Anh B ghi thù, đợi sau khi cảnh sát A tan làm, trên đường trở về nhà đã chặn đường đánh cảnh sát giao thông A đến chết. Trong trường hợp này, cảnh sát giao thông A chết không phải khi đang thi hành công vụ nhưng lại chết vì lý do công vụ của bản thân. Nên Anh B phạm tội giết người vì lý do công vụ của nạn nhân.
Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người này sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết trước. Ví dụ: A làm nhà trái phép, Uỷ ban nhân dân Quận B ra quyết định dỡ bỏ và giao cho Uỷ ban nhân dân phường K thi hành. A đến nhà ông Chủ tịch phường xin hoãn, nhưng không được nên đã bực tức lấy dao đâm chết ông Chủ tịch phường tại nhà riêng của ông.
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Đây là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc; giết người mà người bị giết đáng lẽ người phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng. Việc nhà làm luật coi trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự ( tình tiết định khung tăng nặng) là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo.
- Ông, bà gồm ông bà nội (người sinh ra bố của thủ phạm), ông, bà ngoại (người sinh ra mẹ của thủ phạm);
- Cha, mẹ được hiểu là cha, mẹ đẻ hoặc cha, mẹ nuôi. Cha, mẹ đẻ là người đã sinh ra người phạm tội. Cha, mẹ nuôi là người nhận người phạm tội làm con nuôi được pháp luật thừa nhận;
- Người nuôi dưỡng là người chăm sóc, quản lý, giáo dục người phạm tội như vai trò của bố mẹ mình;
- Thầy giáo, cô giáo của mình là người trực tiếp giảng dạy mình về văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp, v.v...
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Là trường hợp trước hoặc sau khi giết người, người phạm tội đã phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù. Và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng phải đi liền trước hoặc ngay sau khi giết người xét về mặt thời gian; có thể vừa chấm dứt tội phạm trước đã thực hiện ngay tội phạm sau.
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác.
Thực hiện tội phạm này có thể theo một trong hai trường hợp sau:
Một là, giết người để thực hiện một tội phạm khác, thể hiện mục đích của người phạm tội muốn thực hiện một tội phạm khác nhưng có người gây cản trở, khó khăn nên phải giết họ thì mới có điều kiện thực hiện tội phạm khác. Như vậy, việc giết người được thực hiện trước khi tiến hành tội phạm khác. Ví dụ: giết người bảo vệ để vào kho lấy tài sản, giết cán bộ kiểm lâm để vào rừng khai thác gỗ...
Hai là, giết người để che giấu một tội phạm khác là người phạm tội sau khi phạm một tội nào đó nhưng sợ bị phát hiện, bị tố cáo nên đã giết người. Như vậy, việc giết người được thực hiện sau khi đã phạm một tội khác như người phạm tội sau khi hiếp dâm, sợ nạn nhân tố cáo nên đã giết nạn nhân.
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân.
Bộ phận cơ thể ở đây có thể là gan, thận, tim, phổi, tay, chân,...
Đây là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó hoặc dùng vào mục đích nghiên cứu khoa học.
Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả giận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn.
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ.
Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết...Các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết.
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp.
Đây là trường hợp người phạm tội đã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp để giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 52 Bộ luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.
Nếu người có hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của người phạm tội mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà người phạm tội có thù oán.
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người.
Người phạm tội sử dụng các thủ đoạn nguy hiểm cũng như dùng các loại công cụ, phương tiện có khả năng gây nên cái chết cho nhiều người cùng một thời gian như: ném lựu đạn vào chợ, vào rạp hát; hoặc cho thuốc độc vào bể nước của gia đình... Hậu quả của hành vi sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người có thể chết người mà người phạm tội mong muốn và có thể chết người khác, có thể chết nhiều người và cũng có thể không ai bị chết.
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê.
Thuê giết người là trường hợp thủ phạm không trực tiếp hành động, mà giấu mặt, dùng tiền hoặc lợi ích vật chất, tinh thần để yêu cầu người khác thực hiện hành vi phạm tội giết người.
Giết người thuê là hành vi của một người nào đó trong ý thức ban đầu không muốn giết người nhưng vì được người khác thuê, nếu thực hiện hành vi giết người theo yêu cầu của người thuê, thì sẽ nhận được những lợi ích nhất định nên đã thực hiện hành vi giết người.
Thuê giết người và giết người thuê có mối quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê).
n) Có tính chất côn đồ. Xem thêm: 3 Cách Kiểm Tra Những Thiết Bị Kết Nối Wifi, Cách Kiểm Tra Mạng Wifi Có Bao Nhiêu Người Dùng
Là trường hợp khi giết người, người phạm tội rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, giết người vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người.
o) Có tổ chức.
Là trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện việc giết người; có sự phân công; có kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người.
Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức.
Khi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu hay giúp sức, chỉ huy hay thực hành...) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt (cá thể hoá hình phạt) phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham gia vào vụ án. Có thể kẻ bị tử hình, nhưng có kẻ chỉ bị phạt ba hoặc bốn năm tù.
p) Tái phạm nguy hiểm.
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Như vậy giết người trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã giết người hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội giết người, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục giết người.
q) Vì động cơ đê hèn.
Đây là trường hợp giết người có tính ích kỷ cao, phản trắc, bội bạc,v.v... với những người quen hoặc những người thân trong gia đình, họ hàng như giết người để cướp vợ, để cướp chồng của nạn nhân; giết người tình của mình để trốn tránh trách nhiệm, hôn nhân; giết người đã giúp đỡ mình, cho vay tiền, cho mượn đồ đạc trong những lúc khó khăn để khỏi phải trả ơn, trả nợ... Giết người vì động cơ đê hèn gồm một số trường hợp sau đây:
- Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác tức là vì muốn tự do lấy vợ hoặc chồng khác nên người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng của mình.
- Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân.
Thông thường, trong trường hợp này giữa người có hành vi giết người với vợ hoặc chồng nạn nhân có quan hệ thông gian với nhau. Tuy nhiên, có trường hợp cá biệt không có quan hệ thông gian từ trước, nhưng trước khi giết nạn nhân người có hành vi giết người đã có ý định lấy vợ hoặc chồng nạn nhân. Trường hợp có quan hệ thông gian từ trước và cả hai đều là thủ phạm thì một người phạm tội thuộc trường hợp "giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ, lấy chồng khác" còn một người phạm tội thuộc trường hợp "Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân".
- Giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm.
Đây là trường hợp giết phụ nữ mà biết là có thai, nhưng nạn nhân lại là người tình với người phạm tội .
Trách nhiệm mà người phạm tội trốn tránh là trách nhiệm làm bố đứa trẻ, do có trách nhiệm này mà có thể làm cho người phạm tội bị ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống như: bị kỷ luật, bị xã hội lên án, bị gia đình, vợ con ruồng bỏ xa lánh v.v...
Nạn nhân có thai là yếu tố bắt buộc để xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp này. Nhưng nếu nạn nhân không có thai mà nói dối với bị cáo là đã có thai nhằm thúc ép bị cáo phải cưới mình và bị cáo vì sợ trách nhiệm nên đã giết nạn nhân thì vẫn bị coi là phạm tội vì động cơ đê hèn.
- Giết chủ nợ để trốn nợ
Người phạm tội giết nạn nhân chủ yếu nhằm trốn nợ, nhưng không phải cứ có vay mượn, nợ nần mà đã vội xác định người phạm tội giết người vì động cơ đê hèn, mà phải xác định việc vay mượn đó có xuất phát từ tình cảm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau không? Nếu nạn nhân là người cho vay lãi nặng, có tính chất bóc lột thì không thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn.
- Giết người để cướp của.
Là trường hợp, người phạm tội muốn chiếm đoạt tiền của do nạn nhân trực tiếp quản lý (chiếm hữu) nên đã giết họ. Tính chất đê hèn của trường hợp giết người này cũng là vì tiền.
- Giết người là ân nhân của mình.
Được coi là ân nhân của kẻ giết mình trong trường hợp nạn nhân là người đã có công giúp đỡ người phạm tội trong lúc khó khăn mà bản thân người phạm tội không thể tự mình khắc phục được. Việc giúp đỡ của nạn nhân đối với người phạm tội lẽ ra người phạm tội phải chịu ơn suốt đời, nhưng đã bội bạc phản trắc, đã giết người giúp mình, chứng tỏ sự hèn hạ cao độ.
- Trường hợp người có hành vi giết người không giết được người mình muốn giết mà giết người thân của họ mà những người này không hề có mâu thuẫn gì với người có hành vi giết người , họ yếu đuối không có khả năng tự vệ như ông bà già, người bị bệnh nặng và các em nhỏ, họ là bố mẹ, vợ con của người mà người có hành vi giết người định giết nhưng không giết được cũng được coi là giết người vì động cơ đê hèn.
Hậu quả trực tiếp của tội này thông thường là làm chết người trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cần xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Nhưng cũng có trường hợp nạn nhân chỉ bị thương, bị cố tật hoặc nạn nhân không ảnh hưởng gì trong trường hợp giết người chưa đạt như nạn nhân bị bắn nhưng không trúng, đầu độc nạn nhân nhưng được cấp cứu kịp thời nên không chết,... Đó là trường hợp giết người chưa đạt đã hoàn thành.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Tội giết người được thực hiện bởi bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, tội giết người được thực hiện bởi bất kỳ người nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Trong một số trường hợp nhất định trong mặt khác quan của tội phạm, người phạm tội phải đạt đủ yêu cầu phải là con, cháu, người có trách nhiệm nuôi dưỡng người khác, học trò; người có nghề nghiệp nhất định mới cấu thành tội phạm.
Thứ hai, Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự. Như vậy, người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội giết người.
Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự. Hoặc trường hợp người phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 125 Bộ luật hình sự.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội giết người chủ yếu được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, cũng có trường hợp do lỗi cố ý gián tiếp. Một số trường hợp luật quy định phải làm rõ động cơ, mục đích của người phạm tội như: vì động cơ đê hèn, để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác,... Người phạm tội biết rõ mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình gây ra, nhận thức rõ hành vi đó có thể gây tổn hại đến thân thể người khác và nhìn thấy trước hậu quả chết người. Tuy nhiên người phạm tội vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
3. Hình phạt đối với người phạm tội giết người
Điều 123 Bộ luật hình sự quy định 03 Khung hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội và hình phạt bổ sung đối với người thực hiện hành vi giết người.
Hình phạt chính được quy định như sau:
- Khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình áp dụng đối với trường hợp người phạm tội giết người thể hiện mức độ và tính nguy hiểm cao của tội phạm. Các trường hợp này được quy định tại Khoản 1 Điều 123 và được phân tích kĩ trong mặt khách quan của tội phạm. Đây là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Điều 9 Bộ luật hình sự.
- Khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội giết người nhưng không thuộc các tình tiết tăng nặng ở Khoản 1 Điều 123. Đây là loại tội phạm rất nghiêm trọng theo quy định tại Điều 09 Bộ luật hình sự.
- Khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Theo Điều 14 Bộ luật hình sự, chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm. Theo đó, chuẩn bị phạm tội giết người, là việc chuẩn bị công cụ, điều kiện cần thiết, rủ rê, lôi kéo người khác cùng tham gia giết người, chuẩn bị công cụ thể che giấu hành vi giết người, phi tang xác nạn nhân,...
Hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội giết người có thể là cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
4. Vụ án thực tế xét xử về tội giết người
Như vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên bị cáo Đỗ Thanh N phạm tội “Giết người” (chưa đạt), xử phạt bị cáo 10 năm tù.
Cho tôi hỏi các yếu tố nào cấu thành tội giết người theo Bộ luật Hình sự 2015? Người che giấu người phạm tội giết người bị phạt bao nhiêu năm tù? Câu hỏi từ chị Hiền (Đồng Nai)Nội dung chính
Các yếu tố nào cấu thành tội giết người theo Bộ luật Hình sự 2015?
Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau như: dùng hung khí tấn công, đánh đập, bóp cổ, dìm nước, đầu độc,...
Theo Bộ luật Hình sự 2015 các yếu tố để cấu thành tội giết người, bao gồm:
<1> Chủ thể
Căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định tuổi chịu trách nhiệm của tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Ví dụ: Người từ đủ 14 tuổi ở lên có hành vi giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội giết người.
<2> Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội giết người là những hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ.
Hành vi này có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau như: dùng hung khí tấn công, sử dụng chất độc, đẩy nạn nhân xuống vực sâu, v.v.
<3> Mặt khách thể
Mặt khách thể của tội giết người là hành vi xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của con người được pháp luật hình sự bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
<4> Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội giết người là lỗi cố ý, bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
- Cố ý trực tiếp:
+ Mong muốn: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Thấy trước: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho người khác và thấy trước hậu quả đó xảy ra.
- Cố ý gián tiếp:
+ Biết: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho người khác, nhưng không mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Để mặc: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho người khác, nhưng vẫn để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Chấp nhận: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho người khác, và chấp nhận hậu quả đó xảy ra.
Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo!
Các yếu tố nào cấu thành tội giết người theo Bộ luật Hình sự 2015? (Hình từ Internet)
Tội giết người bị phạt bao nhiêu năm tù?
Căn cứ Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội giết người:
Điều 123. Tội giết người1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:a) Giết 02 người trở lên;b) Giết người dưới 16 tuổi;c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;n) Có tính chất côn đồ;o) Có tổ chức;p) Tái phạm nguy hiểm;q) Vì động cơ đê hèn.2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.Theo quy định trên, người phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 07 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình tùy theo mức độ vi phạm.
Người chuẩn bị phạm tội giết người là người tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, người phạm tội giết người còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Người có hành vi che giấu người phạm tội giết người thì bị phạt bao nhiêu năm tù?
Căn cứ khoản 1 Điều 389 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 137 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định tội che giấu tội phạm:
Điều 389. Tội che giấu tội phạm1. Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây của Bộ luật này, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:...b) Điều 123, các khoản 2, 3 và 4 Điều 141, Điều 142, Điều 144, khoản 2 và khoản 3 Điều 146, các khoản 1, 2 và 3 Điều 150, các điều 151, 152, 153 và 154;...2. Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.Căn cứ Điều 18 Bộ luật Hình sự 2015 quy định che giấu tội phạm:
Điều 18. Che giấu tội phạm...2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.Theo quy định trên,người nào không hứa hẹn trước mà che giấu người phạm tội giết người, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội che giấu tội phạm.
Người phạm tội che giấu tội phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm tùy theo mức độ vi phạm.
Ngoài ra, người phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Lưu ý: Người có hành vi che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.